Cuộc sống vẫn chảy trôi mải miết với bao điều bận rộn khó khăn,
bao nỗi nhọc nhằn mà mỗi người, trong mỗi cảnh phải oằn lưng gánh chịu, nhưng
cuộc sống cũng thật là kì diệu bởi giữa cõi nhân gian này, chúng ta còn có tình yêu!
Vâng, mọi đền đài
rồi cũng sụp đổ, mọi tượng thần rồi cũng tiêu tan, khủng bố có thể làm nát vụn
tòa tháp đôi ( từng được mệnh danh là nóc nhà của thế giới) của nước Mĩ; động
đất, sóng thần có thể biến đất liền thành hoang đảo, giữa thế giới nhiều đổ vỡ
mất mát, ta vẫn bình thản để nói với nhau rằng: vẫn còn đó tình yêu, tiếng nói đầu tiên, giọng nói cuối cùng, điều
quan trọng nhất để duy trì sự sống...
Hãy
cùng đến với một bài thơ xinh xắn của nhà thơ chân quê đất Việt Nguyễn Bính, để
cùng tôi suy nghĩ cảm nhận điều này: tương tư...
Có thể nói, trong các nhà thơ mới, Nguyễn Bính
được xem là tiếng nói yêu thân nhất, bởi ông đã kế thừa một cách nhuần nhị
những nét đẹp của truyền thống dân gian trong việc sáng tạo Thơ Mới. Người ta
vẫn thấy trong dòng thơ Quê thời ấy một Anh Thơ thạo về cảnh quê, một Đoàn Văn Cừ giỏi về nếp quê, một Bàng Bá Lân nghiêng về đời quê và một Nguyễn Bính đậm nét về hồn
quê. Hồn quê ấy được tạo nên nhờ một phần không nhỏ của thể thơ lục
bát, thể thơ dân tộc nhất trong các thể thơ dân tộc. Lục bát với Nguyễn Bính
dường như là một sáng tạo thuộc về bản năng, như người ta sinh ra tự nhiên đã
có tiếng nói riêng của mình vậy.
Nhưng hồn quê,
chất quê đậm đà nhất vẫn là thế giới cảm xúc của người quê được thể hiện khá
sâu sắc trong bài.
Ngay từ bốn dòng thơ đầu những lời yêu đầu
tiên cất lên, thật rụt rè, khiêm tốn, nhưng dần dần đã mở ra cả một trời cảm
xúc.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn
Đông
Một người chín nhớ mười
mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi
yêu nàng
Chỉ là bốn câu thôi nhưng đã bao trọn
linh hồn thi phẩm. Sức nặng và ý nghĩa của nó xem ra không kém mười sáu dòng
thơ sau.
Tâm điểm cảm xúc
của nhân vật trữ tình trong mấy câu trên là nỗi
nhớ. Không chỉ là người nhớ người mà còn thôn nhớ thôn. Nỗi nhớ đã choán ngợp
không gian.Nỗi nhớ ngập tràn tâm trạng. Từ một tư thế, một tâm trạng “ngồi nhớ”, nhưng vẫn khiêm nhường ẩn sau
địa danh muôn thuở của làng quê mà ta đã gặp ở ca dao với Thôn Đoài, thôn Đông, đến câu hai, nỗi nhớ như đã có lửa đốt, cháy
bỏng, bồn chồn, như muốn phá vỡ thế ngồi bình thản ở bên trên để mà bật dậy đi
lại nôn nao, rạo rực: chín nhớ mười mong.
Sở dĩ ta có cảm giác ấy bởi nhà thơ đã khéo léo biến đổi thành ngữ
Chín nhớ mười thương, chín đợi mười chờ thành chín nhớ mười mong (Vì nhớ
nên mong, hai cấp độ).Và hai thanh trắc đi liền kết hợp với
sự gia tăng về số từ khiến âm điệu nhớ thương càng thêm da diết.
Ở hai câu trên, cặp đôi: thôn Đoài ... thôn Đông, một
người ... một người, được đặt ở hai
đầu nỗi nhớ góp phần cụ thể hoá nỗi nhớ đến độ sâu sắc. Giữa chúng là khoảng
cách giăng mắc nghìn trùng của không gian tâm lý và trạng thái tâm lý.... Nhưng
đây là nỗi nhớ đơn phương, chỉ thôn Đoài
ngóng vọng sang thôn Đông, một người hướng nỗi nhớ mong về một người
nên lời thơ cũng không được bố trí theo kiểu quấn quít, vương vít lại qua như: Ta với mình, mình với ta; hay: Ta về ta nhớ những hoa cùng người, bộn
bề, chồng chất. Từ thế tĩnh: ngồi nhớ, chuyển sang thế động: chín nhớ mười mong, cuối cùng lắng đọng lại trong một đúc kết,
chiêm nghiệm: Gió mưa là bệnh của giời...Nguyễn Bính quả có tài dẫn dụ, mê hoặc
người đọc cuốn vào thế giới muôn hình vạn trạng của con tim khắc khoải yêu
đương.
Cái tôi trữ tình ban đầu giấu mặt sau hình ảnh hoán dụ : thôn Đoài ... thôn Đông để nỗi nhớ được gói kín một
cách ý nhị, hương vị ca dao vì thế mà trở nên vời vợi, mơ màng. Nhưng đến câu
hai, nó đã hé lộ dần thành đại từ phiếm chỉ: một người ... một người, để
rồi, đến hai câu cuối đoạn, như xôi bỏng
bọc lá tươi, xôi bỏng bọc lá tươi
càng nóng, cả nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình đều không đừng được
phải lộ diện. Không ai khác, đó chính là tôi
và nàng đấy thôi! Anh chàng nhà quê
đã lộ ra khuôn mặt kinh thành lãng tử. Và cái nông nỗi chín nhớ mười mong kia đích thị là tương tư rồi! Đến đây, cái địa danh tưởng chừng mang tính phiếm chỉ
cho một làng quê Việt Nam tự ngàn đời thôn
Đoài, thôn Đông bỗng trở thành một miền không gian của niềm thương nỗi nhớ!
Nó được nhân hóa để thành sinh thể có linh hồn, có trạng thái, đa tình ngồi nhớ miên man...
Có phải nhớ thương quá hoá thành bối rối? Nhân
vật trữ tình bèn lấy quy luật của tự nhiên để biện hộ, bào chữa cho mình. Hình
ảnh so sánh:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi
yêu nàng
đem lại cho ta cảm giác vừa
quen vừa lạ. Quen vì vẫn là một
cách mượn hình ảnh thiên nhiên để nói hộ lòng người, nhưng lạ vì cái tôi ở đây đã dám ngang nhiên đối diện với trời trong
chuyện... tương tư! Gió mưa là những
hiện tượng tự nhiên của trời đất, tương tư là trạng thái tất yếu phải có của
tình yêu. Và như thế, tình yêu không là gió mà có thể làm mưa làm gió, thậm chí
gây nên bao giông tố trong trái tim biết bao người! Nó phần nào như nhan sắc
nghiêng nước nghiêng thành của những giai nhân “ Vũ vô kiềm toả năng lưu khách. Sắc bất ba đào dị nịch nhân” Hình ảnh thơ thật dung dị, tự nhiên mà chứa
một nội hàm ý nghĩa không nhỏ...
Nếu Bích Khê chìm đắm trong trạng thái chơi
vơi mơ hồ: Sương nương theo trăng ngừng
lưng trời/ Tương tư nâng hồn lên chơi vơi, thì Xuân Diệu Tương tư, chiều… mặn nồng cuồng nhiệt
buộc nỗi nhớ phải hiện hình trong câu chữ: Anh
nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em. Anh nhớ lắm em ơi, còn nữ sĩ Xuân Quỳnh thì dịu dàng mà tha thiết: Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt
nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được... Quả là mỗi người có
một cách bộc bạch riêng, mỗi câu thơ đem đến một thú vị riêng, nhưng bình thản
tự nhiên như không mà khiến lòng người não ruột phải kể đến câu thơ này của
Nguyễn Bính. Như rễ cây và đất, như gió và mây, như biển và sóng, như bầu trời
và ánh sao đêm, nỗi nhớ nồng nàn da diết đã nuôi dưỡng tình yêu, làm đẹp thêm
cho tình yêu, và luôn song hành cùng tình yêu, nằm cuộn trong nhau như sóng cồn
trong lòng bể...
Thế nhưng tương tư đâu chỉ là chuyện của nỗi
nhớ? Dù nỗi nhớ có là trạng thái điển hình nhất của tình yêu... Tương tư là dạng
thức sống động nhất của tình yêu với những biểu hiện vô cùng phong phú, một căn
bệnh của phức hợp những cảm xúc. Hãy cùng nhân vật trữ tình đi đến tận cùng những
cung bậc cảm xúc ấy trong mười sáu dòng thơ tiếp. Tình yêu song hành cùng nỗi
nhớ. Đã nhớ là phải mong, càng nhớ đến khắc khoải bồn chồn
càng mong được gặp nàng da diết. Mong mãi mà không gặp thành ra trách cứ vô lý:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang
bên này
Vẻ ngoài dường như vô lí, nhưng trong cái phi lí của sự vật lại có
cái hữu tình của cảm xúc. Thực ra, đó là cách tạo ra tình huống trữ tình để giãi
bày cảm xúc. Hờn trách đâu phải vì ghét? Nếu có quy kết trách nhiệm chẳng qua
cũng là bởi quá yêu mà thôi. Và cũng bởi đã quá yêu, quá mong nhớ, ngỡ tưởng bị
hững hờ nên sinh ra hờn ngược, trách xuôi.
Bên ấy... bên này thật chẳng dịu dàng ý nhị lắm sao? Lại cùng chung lại..tuy Hai bên mà là Một! Thật
khen cho anh chàng khéo nói. Gần gũi như thế sao người chẳng sang? Cứ làm như
tình cảm tất nhiên phải tỉ lệ thuận với khoảng cách không gian không bằng! Nhưng đây cách một đầu đình/ Có xa xôi mấy mà tình xa xôi? Lời thơ cứ vặn vẹo
trong nỗi nhớ thương hờn trách đến khổ sở của một trái tim yêu trót mắc bệnh đa
tình không có cách nào hóa giải...Nhưng dù trách móc hờn dỗi, nào nàng có biết
cho chăng? Vì thế mà dù cố tình “đóng cũi
sắt tình cảm” mình cũng không tránh khỏi thở than:
Ngày qua ngày/ lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây
lá vàng
Chàng cứ đợi, cứ chờ, và thời gian biến thành chuỗi ngày nặng nề
thê thảm. Nhịp ngắt 3/3 và sự lặp của một chữ lại tạo cho ta cảm giác thời gian trôi qua hết sức chậm chạp, và
ngày mới chỉ là sự lặp lại ngày cũ một cách cách vô vọng, chán nản mà thôi! Qua
nhịp bước thời gian, ta có thể nhận ra dòng chảy của tâm trạng. Nhân vật trữ tình
như đang ngồi đếm từng bước đi chậm trễ của thời gian. Thời gian càng chậm, tâm
trạng càng nặng nề. Tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng như kéo dài
lê thê. Hết một mùa, hết một năm, hết một đời cây, chẳng mấy chốc mà hết nửa
đời người. Từ đã chỉ sự hoàn tất một
quá trình, chữ nhuộm nghe phũ phàng
hơn nhuốm. Cùng chỉ sự tương giao sắc
màu, nhưng Nguyễn Du (Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san), Xuân Diệu, ( Đổ
trời xanh ngọc qua muôn lá; Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh), Tố Hữu ( Ve kêu rừng phách đổ vàng), mỗi nhà thơ
đã chọn được cách nói riêng phù hợp với nội dung biểu đạt trong từng hoàn cảnh.
Trong trường hợp này, Nguyễn Bính không thể thay thế từ nào khác khi diễn tả thời gian nhung nhớ
qua sự thay mầu của cảnh vật. Chữ nhuộm vừa diễn tả thời gian vừa miêu tả
tâm trạng. Nỗi lòng tương tư mà như thắt ruột, mòn gan, héo cả tim, đã khiến lòng
người héo hon, đã nhuộm cây héo úa.
Thở than đâu đã hết? Rồi chàng lại kể lể :
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Hình như, khi người ta sợ người kia không hiểu
mình, ấy là khi trái tim ta thầm mách bảo mình đã lỡ nhịp vì yêu, lời thơ được
sắp xếp theo lối đảo phách Biết – cho
- ai/ hỏi ai- người biết- cho thể hiện nỗi day dứt khổ
sở của kẻ lụy tình. Ai kia tỉnh táo hơn có thể trách chàng lắm lời, yêu đơn
phương làm gì cho mỏi mệt, nhưng trái tim luôn có cái lý riêng của nó. Ngay cả
những cảm giác vị giác dễ nhận biết nhất như muối mặn, ớt cay, chanh chua, đường ngọt, mà tình yêu có khi còn
làm xáo trộn tất cả:
Muối chua,
chanh mặn,
ớt ngọt,
đường cay...
Miếng gừng thì chát...
Từ ngày xa nhau! ( Ca
dao)
Hóa ra, tất cả những sự trách cứ thở
than kia đều có lý cả...Việc sử dụng ngôn ngữ nói với mật độ khá dày: bảo rằng, là chẳng, có xa xôi mấy, ai người
biết cho...khiến lời thơ mang một giọng điệu riêng, dễ thương và gần
gũi...
Nhưng dẫu thở
than hay kể lể dỗi hờn, thì cũng chỉ là mong đến một ngày gặp gỡ mà thôi!
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Bến – Đò là cặp hình ảnh quen thuộc của ca dao, nhưng hoa khuê các thì rất lạ. Đây là câu thơ
bị coi là kém hay nhất trong bài, nó giống như một khóm hoa Hồng giữa vườn Đào
Mai, Mận, có vẻ đẹp nhưng lạc lõng, không phù hợp với hệ thống những hình ảnh
cặp bè rất ăn ý trong bài thơ:
thôn Đoài – thôn Đông
Một người – Một người
Tôi – Nàng
Bên ấy – Bên này
Bến – Đò
Hoa – Bướm
Nhà anh – nhà em
Giầu – Cau
Từ xa xôi đến gần gũi, từ khái quát đến cụ
thể, bài thơ đã đi vào lời kết bằng hình ảnh: Giầu, cau thật nhiều ý nghĩa. Cụm từ nhà anh- nhà em thật đằm thắm, và hình ảnh ẩn dụ Giầu, cau là tín hiệu của hôn nhân, kết hợp với câu hỏi tu từ đã
biến bài thơ tương tư thành một lời
cầu hôn ý nhị, rất gần với những lời tỏ tình bóng gió xa xưa, mà vẫn rõ nét hào
hoa của một nhà thơ Mới:
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Thật ngọt ngào tình tứ trong âm điệu, thật chặt chẽ trong ý tình, bởi sự
trở lại của Thôn Đoài thôn Đông gợi
hồn quê đất Việt, sự tất yếu trong thế khó cưỡng lại được của một chữ thì, và cái ỡm ờ diệu vợi trong một câu
hỏi: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn
nào?
Thực chất, tương tư mới là khúc nhạc
dạo đầu của tình yêu. Thời gian tương tư là khoảng thời gian đẹp nhất nhưng
cũng khổ sở nhất của đời người. Nó đúng là một thứ bệnh khiến ta trở nên
yếu đuối, ngẩn ngơ, vụng dại, đôi khi không ý thức được sự
hiện hữu của chính mình giữa cộng đồng nhân loại. Hẳn là vô cùng đau khổ...
Nhưng dù khổ đau như thế và hơn thế nữa, cũng chẳng ai từ chối nó bao giờ. Bởi hạnh phúc và khổ đau, ngọt ngào và cay đắng... Đó là những vị không thể thiếu của tình yêu, thiếu mặt nào xem ra tình yêu chưa đủ vị? Và cũng bởi thế, những bài ca tương tư vẫn còn nhiều lời đồng vọng...
Th.S Bùi Đình Nhiễu
(Tổ trưởng tổ Văn)