Ai đã
đặt tên cho dòng sông?
-Hoàng Phủ
Ngọc Tường-
(Chuyên đề ôn thi Đại học - Tác giả: Nguyễn
Thanh Huyền - GV Văn)
I. Hình tượng cái tôi
tác giả
1. Một cái tôi dạt dào cảm xúc:
1.1. Tư thế và tâm thế:
+ Tư thế: Một
người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng bừng
khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư
thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử
dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.
+ Tâm thế: Một
người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn
thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời
gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có
hoa nở.và trái chín mà vẫn thể hiện một “thần
thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội tâm”- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa
phóng khoáng. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự
tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư
thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để
cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của
thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung
động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm
trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ
giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: “dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc,
nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng
thắm thiết…” và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố của
nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của
Truyện Kiều “tỡm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những
rung động của tình yêu- một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với
con sông xứ Huế.
1.2. Cảm hứng và cảm xúc:
+Cảm hứng: niềm say sưa tìm kiếm và
khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các
phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường
như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của
dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp
của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông
xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là
con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều,
rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại
vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.
+ Cảm xúc: vô cùng phong phú. Có khi
nó đựơc bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng
, miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng, nhớ da diết
điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu chảy như một
điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất vọng
khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm
nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên
chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái
chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại đượcbộc lộ gián
tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện:
Cái “tôi” tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc
đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc
bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận
ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng
lơ kín đáo của tình yêu”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của
Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện
bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới
hiện đại ”; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một
sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa “màu áo lục điều
với loại vải…ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để từ cái sắc màu
văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của sương khói trên sông Hương
giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của
dòng sông”
Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem
tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết
để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của
sông Hương.
2. Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng
trong tìm kiếm và phát hiện
2.1. Kiến thức và ý thức
+ Kiến thức: phong phú và có chiều
sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy
động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn
hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì
thuộc về xa xưa…Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà
văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông
trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm
dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa
thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách
thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư
liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích
còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động,
đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này
không tách rời nhau, không độc lập tồn
tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà
văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
+ ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc
hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả
lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây là câu hỏi ngỡ như
bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy
ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ
giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách
nghĩ và những cảm nhận của con người về
nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu
tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được
đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy,
sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch
sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần…Và trong
quá trình tìm hiểu “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là
một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm
hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con
người xứ Huế.
2.1. Con đường và đích đến;
+ Con đường: Đọc bài tuỳ bút dễ thấy
Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tinh tế khi lắng nghe và chiêm nghiệm những cảm xúc,
cảm giác phong phú và những ý nghĩ sâu xa. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất trữ
tình đậm đà đằm thắm. Song nếu chỉ đào sâu vào những cảm xúc, cảm giác của mình
hoặc lục tìm trong sách vở thì thế giới của một cái tôi dẫu phong phú rộng mở đến mâý cũng chỉ là
giới hạn. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tuỳ bút này không chỉ do
nhà văn biết lắng nghe và xúc động, biết nghiên cứu, tìm hiểu và suy ngẫm mà còn
bởi người nghệ sỹ ấy có thực tế từ những chuyến đi. Đọc bài tuỳ bút cũng rất dễ
để thấy rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường rất hay đi: “Xuân hạ thu đông tôi vẫn
thường lên thăm vườn An Hiên của bà Tùng ở Kim Long ” để từ đó “từ mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay
ra mặt sông” mà cảm nhận cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trêm mỗi trang Kiều. Song nhà văn lại cũng ý thức sâu sắc
rằng “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn
mặt kinh thành của nó, người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông
Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần
tâm hồn sâu thẳm của nó”. Vì thế nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình
theo suốt chiều dài của con sông từ nơi khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn với
rừng già, ghềnh thác, vực xoáy để rồi chuyển dòng liên tục mà hoà mình với cánh
đồng Châu Hoá đầy hoa dại và bắt đầu hành trình tìm kiếm thành phố tương lai
của nó. Và bởi cũng đã từng biết đến sông Xen của Pari, sông Đanuyp của
Buđapet, sông Nêva của Nga mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nhận ra nét riêng của
Sông Hương trong nhịp điệu, trong sắc thái văn hoá và trong quan hệ của nó với
thành phố của mình. Trong những chuyến đi dọc sông Hương, chuyến đi về làng
Thành Trung có một vai trò quan trọng
đặc biệt bởi nó cho nhà văn không chỉ những thông tin, dấu vết về một khu thành
cổ, một vùng đất chiến lược thuở xa xưa mà còn là một cơ hội để nhận rõ bản
lĩnh Việt sâu sắc, một sức sống Việt thật mãnh liệt, một tâm hồn Việt thật giàu
có phong phú, một khí đất thật hùng hậu và hương đất thật nồng nàn…
+ Đích đến: đi suốt dọc sông Hương
để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm
giác để hiểu thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn
hoá, đời sống và lịch sử, cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả
lời cho câu hỏi đầy khắc khoải vẫn luôn vang vọng trong suốt bài tuỳ bút: “Con
người đã đặt tên cho dòng sông như nhà
thơ chọn bút hiệu cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và
tiếng Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông
Hương không chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết về dòng sông mà còn bằng cảm nhận và
hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy một cách sâu sắc và thấm thía rằng,
không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình lịch sử cùng với diện mạo văn hoá do con
người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một diện mạo, dáng vẻ và cả một tâm
hồn.
3. Một cái tôi tài hoa và vô cùng lãng mạn.
+ Giàu tưởng tượng (quá trình tâm lý
xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở kinh nghiệm của cá nhân và thực tiễn của
đời sống): Sở dĩ bài bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cho là có nhiều
chất tuỳ bút có lẽ một phần vì nhà văn không thuần tuý chỉ ghi chép một cách
chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình rất nhiều cơ hội để tưởng tượng:
Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan sát thực tế, từ việc đi
thực địa mà lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với
cảm nhận về con sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm
của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi
trang Kiều cũng chính là lúc nhà văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương
và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng với tìm kiếm
và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Cũng trong trí tưởng tượng
bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường ca
rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo), khi là một con người giàu nữ tính và có đủ
sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng
và man dại giữa rừng Trường Sơn, người
con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù
sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh
thành). Song có một điều quan trọng là, trong cuộc hành trình dù không ít những
gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy phẩm chất nữ tính của sông Hương khiến
nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình: dù với tâm hồn tự
do và trong sáng hay sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông cũng
là hành trình tìm kiếm người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở
nên mềm hẳn đi “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, rồi cũng
như Kiều khi gặp chàng Kim, sông Hương gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi, sông Hương như chưa nỡ rời
xa thành phố mà cố ý đổi dòng, rẽ ngoặt
sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố lần cuối trong “nỗi vương vấn”
“chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” như nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí
tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề mà sự vang vọng của lời thề ấy,
trong tưởng tượng và sự hình dung của nhà văn chính là giọng hò dân gian “Còn
non- còn nước- còn dài -còn về- còn nhớ…”
Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm
xúc, cảm giác rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất
thơ chan chứa trên mỗi trang văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với
người thưởng thức.
+ Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo:
Thông thường người ta chỉ nói “Thi trung hữu hoạ” “Thi trung hữu nhạc”. ở đây
ta có thể hoàn toàn tự tin mà nói về chất nhạc, chất hoạ, thậm chí là sự hoà
quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất thơ trong chữ nghĩa của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình “Mùa thu tôi ngồi
đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng
ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành
dư vang của một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả
hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông
của một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc
nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn
tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: Cần đặt con sông
trong không gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già rầm rộ
giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn
lốc vào dưới đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của
một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí,
như cổ thi gữa đám quần sơn lô xô, đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô
tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc
cầu của thành phố in ngầm trên nền trời…” Cần đặt con sông trong tổng thể
những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng trong thời gian hình
tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong đêm
sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy
lặng lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng
thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.
Cần đặt sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông
của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự
biến đời mình thành một chiến công ”, khi lại trở về “làm một người con
gái dịu dàng của đất nước ”.Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp
trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó
là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không
chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn
mĩ cảm dồi dào.
4.Đánh giá:
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và
trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn chữ nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ,
rất công phu, trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi làm dáng điệu đà, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người
đọc để hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào
hứng thưởng thức vẻ đẹp của một dòng sông không phải như con sông địa li vô tri
mà như một con người- một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và
cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng
định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của nó.
II. Hình tượng sông Hương.
1. Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
1.1. Vẻ đẹp đa dạng và đầy quyến rũ
+
Luôn được nhìn nhận và khẳng định trong mối quan hệ với không gian địa
lí. Dường như chính sự phong phú của đặc điểm địa lí ở vùng đất mà sông Hương
đi qua đã góp phần hình thành nên vẻ đẹp của dòng sông. Vì vậy để thấy được vẻ
đẹp phong phú của sông Hương cần xem xét nó trong sự gắn bó với không gian, với
địa hình và cảnh thiên nhiên trong từng khoảng thời gian cụ thể
+ Không gian núi rừng Trường Sơn
- Đặc điểm và cấu trúc địa lí: vô
cùng phong phú với bóng cây đại ngàn, ghềnh thác, vực sâu, dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng…Tất cả tạo nên một môi trường để thử thách, rèn luyện
và hình thành tính cách, tâm hồn cho sông Hương.
- Đặc điểm của sông Hương trong môi
trường địa lí ấy: dòng chảy khi rầm rộ, khi mãnh liệt, khi cuộn xoáy, khi lại
dịu dàng và say đắm. Phần hồn riêng của sông được bộc lộ trong hành trình và
qua đặc điểm dòng chảy là phần hồn của một con người đã trải qua cả một quá
trình trưởng thành từ con gái trở thành bà mẹ: vừa mang sức sống mãnh liệt và
hoang dại, vừa có diện mạo dịu dàng trí tuệ, vừa có tâm hồn trong sáng thẳm sâu
lại vừa dạt dào một khát vọng tự do.
+ Không gian châu thổ vùng Châu Hoá
- Đặc điểm địa lí: là sự chuyển tiếp
từ vùng đồi núi sang vùng đồng bằng nên rất đa dạng về địa hình: có vực sâu, có
đồi núi trùng điệp, có thềm đất bãi, có vùng lăng tẩm giữa mây trời và rừng
thông.
- Đặc điểm của dòng sông: Như một
người con gái đẹp vừa tỉnh giấc mộng đã bộc lộ tính cách riêng, tâm hồn riêng-
chuyển dòng liên tục, uốn khúc quanh co để tự tìm kiếm và bộc lộ vẻ đẹp riêng
của nó. Dòng chảy của sông phẳng lặng, hiền hoà, trầm mặc “như triết lí, như
cổ thi”, sắc nước của sông xanh thẳm khi qua lòng vực, phản chiếu màu sắc
của đồi núi, mây trời khi qua những quả đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”,
hình thế của sông thay đổi theo hình thế của địa hình, lúc uốn khúc quanh co,
lúc lại mềm như tấm lụa.
+ Không gian kinh thành Huế:
- Đặc điểm địa lí: Huế trong tổng
thể là một đô thị cổ nằm suốt dọc 2 bờ sông-nhiều biền bãi, nhiều cồn đảo và những
nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp đô thị.
- Đặc điểm của sông: càng trở nên
mềm mại, gợi cảm và đa cảm hơn. Dòng chảy hiền hoà, chậm rãi và yên tĩnh như
mặt nước hồ. Diện mạo vô cùng xinh đẹp, lộng lẫy với trăm nghìn ánh hoa đăng.
Tâm hồn đa cảm: vừa vui tươi khi gặp vùng biễn bãi xanh biếc của vùng ngoại ô
Kim Long, vừa hiền hoà trong những đường cong qua vùng không gian nhiều cồn
đảo, vừa ngập ngừng muốn đi muốn ở khi gặp được nét riêng văn hoá Huế, vừa sâu
lắng trong những khúc nhạc đêm khuya, vừa mơ màng lưu luyến khi phải rời xa
thành phố, vừa vương vấn quyến luyến đến độ phải tạo nên 1 khúc quanh để vòng
lại thành phố thân thương .
1.2. Vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực
đa tình:
+ Nữ tính: Đây là nét riêng của sông
Hương trong cái nhìn riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Sông Đà cũng được nhìn như
một con người nhưng là con người với những tính cách hoàn toàn đối lập, vừa
hung bạo, vừa trữ tình, lúc như một hung thần, lúc như một mĩ nữ xinh đẹp và
gợi cảm). Sông Hương cũng có một đời sống và tính cách phong phú song trong sự
phong phú ấy có thể thấy 1 nét thống nhất là chất nữ tính rất đậm: Khi là một
cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và
trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi
là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở
với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào,
sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn đầy nữ tính. Nữ tính
không chỉ ở vẻ ngoài xinh đẹp hiền hoà hay ở tâm hồn trong sáng mạnh mẽ. Chất
nữ tính đậm đà nhất của sông Hương nằm trong chính đời sống tình cảm rất riêng
của nó để trở thành 1 con sông rất mực đa tình.
+ Đa tình: Ngay từ đầu bài tuỳ bút,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một cảm nhận rất độc đáo về sông Hương trong mối
quan hệ với thành phố của nó-đó là quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng trong
Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Sông Hương sau đó vẫn được nhà văn khẳng định “là Kiều, rất Kiều”- nghĩa
là không chỉ xinh đẹp, tài hoa mà còn đa tình và say đắm. Từ góc nhìn mang tính
phát hiện này, nhà văn đã hình dung ra cuộc hành trình của sông Hương là cuộc
hành trình tìm kiếm người tình mong đợi- một cuộc hành trình gian truân và cũng
không hề ngắn ngủi, một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp
thành phố tương lai của nó. Trong cuộc hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm
mặc, có lúc dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh mẽ…Song nó chỉ thực “vui
tươi” khi đến ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu trắng
của thành phố in ngần trên nền trời. Gặp được thành phố người tình mong đợi
rồi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị trong cái cách “uốn một cánh cung rất
nhẹ sang cồn Hến ”, cái đường cong “như một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu”. Cũng như Kiều khi gặp chàng Kim ở hội Đạp Thanh, sông Hương qua
Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở để ánh hoa đăng chao nhẹ trên mặt nước
“như những vấn vương của một nỗi lòng”. Và cũng như Kiều trong đêm tự
tình với Kim Trọng, sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dòng, rẽ
ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Cái khúc quanh bất
ngờ ấy, trong cảm nhận đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành nỗi
vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của
người con gái để gặp lại người tình, nói lời thề chưa kịp nói mà âm vang lời
thề ấy cho đến giờ vẫn ngân nga vang vọng trên mặt sông thành những câu hò “Còn
non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Cần hiểu đây không thuần túy chỉ
là tưởng tượng lãng mạn của một tâm hồn nghệ sĩ vốn rất say những trang Kiều,
đây còn là cách nhìn của một trí thức vốn hiểu thấu cả dòng sông và con người
của xứ sở mình. Khi con sông được hiểu là mang trong nó linh hồn của con người
thì lời thề của dòng sông với thành phố chính là tấm lòng của người dân châu
Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.
b. Dòng sông đằm thắm, lắng sâu:
b.1. Cốt cách văn hóa rất riêng:
+ Cũng như nàng Kiều không chỉ có
nhan sắc mà còn rất mực tài hoa, sông Hương trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường chính là một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cái nhìn này trước
hết có cơ sở từ thực tế: Sông Hương là dòng sông âm nhạc, đây cũng là nét riêng
không thể lẫn của sông Hương với các dòng sông khác của đất nước. Trên đất nước
Việt Nam tuy dòng sông nào cũng gắn với điệu hò, câu hát, song có được sự tồn
tại song song của hai dòng nhạc cung đình và dân gian như sông Hương thì không
thể có hai. Dòng nhạc cung đình rất trang nhã, rất sang trọng và cũng rất đặc
sắc. Dòng nhạc dân gian cũng rất đằm thắm, da diết ân tình. Điểm gặp gỡ của cả
nền âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian là đều đã được sinh thành
trên mặt nước sông Hương nên nó chỉ vang lên hay nhất trong những khoang
thuyền, chỉ bộc lộ trọn vẹn sức lay động của nó với những ai từng lênh đênh
trên sông nước trong những đêm khuya.
+ Dòng sông thi ca: ở điểm này,
người con gái đẹp, người con gái đa tình, người tài nữ đã thực sự trở thành
nàng thơ trong những tâm hồn thi sĩ. Sự phong phú của diện mạo và cốt cách văn
hóa đã khiến sông Hương trong thơ ca được khám phá và rung động theo một cách
rất riêng, không bao giờ lặp lại: “Từ xanh biếc … trong thơ Tố Hữu”. Và tuy có
vẻ như Nguyễn Du và Tố Hữu có một chút
gặp gỡ trong cảm hứng(Nguyễn Du lênh đênh trên những con thuyền với phiến trăng
sầu nên những bản đàn đã đi suốt đời Kiều, còn Tố Hữu cũng đã thấy bóng dáng
những nàng Kiều trên sóng nước Hương Giang ) song Tố Hữu lại chủ yếu hướng tới
khẳng định sức mạnh phục sinh trong tâm hồn những người con gái ấy bằng một cái
nhìn thắm thiết tình người
+ Ngay cả đến cái tên của dòng sông
Hương cũng có một vẻ rất riêng của con gái để làm bâng khuâng một tâm hồn thi
sĩ và gợi nguồn thi cảm trong chính hồn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường để trong
suốt quá trình tìm hiểu về con sông, không ít lần nhà văn bày tỏ niềm xúc động
và những suy nghĩ chủ quan đậm đặc chất nghệ sĩ: không chỉ nhớ thương, nhà văn
còn vô cùng xao xuyến mà liên tưởng mùi đất thơm với mùi da thịt, không chỉ
hình dung sông Hương là người con gái mà còn thấy sông Hương hiện lên thành
người con gái thần tiên.Và khi ấy cái
tên của dòng sông lại gắn với một huyền thoại đẹp, để dòng sông trở
thành con sông huyền thoại được yêu quý bởi người của đôi bờ: “Vì yêu quý
con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa
đổ xuống lòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”
Như vậy, nhìn từ góc độ kết tinh văn
hóa, con sông của xứ Huế vốn đã rất đẹp ở diện mạo, dáng vẻ lại càng đằm thắm
và đầy sức mê hoặc ở chiều sâu tâm hồn. Nó khiến mỗi người khi đến với con sông
không thể lấy cái tôi của mình mà áp đặt cảm nhận, chỉ có thể tìm sự hòa hợp
với linh hồn của con sông để cùng sống và cùng rung động trong nỗi bâng khuâng.
b.2. Sức sống mãnh liệt.
+Bản năng: Dòng sông Hương, ngay từ
điểm khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn đã là “một cô gái Di gan phóng khoáng và
man dại” với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự
do và trong sáng. Và cho dù sức mạnh bản năng của người con gái ấy đã được chế
ngự bởi người mẹ rừng già, thì nó vẫn đủ cho sông Hương đi hết cuộc hành trình
của riêng nó- một cuộc hành trình đầy gian truân qua cả ghềnh thác, vực thẳm,
cồn đảo, quần sơn lô xô, đền đài, lăng tẩm, biền bãi, thành phố, xóm làng…Và không chỉ đi hết cuộc hành
trình, bản năng sống đã khiến cô gái sông Hương sống trọng vẹn cuộc sống của
riêng mình: từ cô gái trở thành bà mẹ, từ say mê tìm kiếm người tình đến hào
phóng nuôi dưỡng và đắp bồi một nền văn hóa.
+ Khả năng: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
mượn chính văn kiện của Liên Hiệp quốc để nói về khả năng tạo lập, hình thành
và hoàn thiện nền văn hóa Huế của sông Hương. “Dòng sông và những đầm phá
của nó, những dòng kênh uốn lượn qua
thành phố cũng với tư thái của những ngôi nhà giữa những khu vườn xanh tươi,
tất cả mang lại cho Huế một vẻ trong sáng và thư thái, giành riêng cho cảm hứng
nghệ thuật và tri thức”. Chính sông Hương đã nuôi dưỡng nguồn cảm hứng nghệ
thuật, bồi đắp cho những tâm hồn nghệ sĩ để Huế có dòng thi ca và âm nhạc của
riêng mình. Song cũng chính sông Hương đã bồi đắp nguồn sức sống cho đôi bờ để
bốn mùa hoa trái thắm tươi, bồi dưỡng và rèn luyện bản lĩnh cho con người của
một vùng đất để nhờ có bản lĩnh Việt sâu sắc mà sông Hương và con người của nó
mới không bị thu hút trước sự gặp gỡ với nền văn hóa hải đảo từ Nam Thái Bình Dương, để trong đánh giá của
nhà văn, chính vùng đất hạ lưu sông Hương là cái nôi của truyền thống văn hóa
Phú Xuân.
c. Dòng sông kiên cường mạnh mẽ.
c.1. Kiờn trỡ và kiờn cường
- Sông Hương
trong sự khám phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ được đặt trong mối quan hệ
với không gian địa lý, với các giá trị văn hóa mà còn được soi ngắm từ góc độ
lịch sử. Có rất nhiều khoảng thời gian được nhắc tới ở đây: thời các vua Hùng,
sông Hương là một dòng sông biên thùy xa xôi, thế kỉ 15 là dòng sông viễn châu
đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc, thế kỉ 18 soi
bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỉ 19 sống hết lịch
sử bi tráng của những cuộc khởi nghĩa, thời đại cách mạng tháng Tám lại đem đến
cho con sông những chiến công rung chuyển, thời chống Mĩ, sông Hương tuy bị tàn
phá nặng nề song vẫn kiên trinh với lời thề sắt đá…Cách nhìn và cách dùng từ
ngữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây đã làm bật sự vận động của hình tượng sông
Hương từ một con sông địa lí thành một con sông lịch sử, từ một người con gái
đẹp và tài hoa trở thành người con gái kiên cường của đất nước. Sông Hương
không chỉ in dấu lịch sử,song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của
riêng nó- một lịch sử hào hùng và dữ dội,bất khuất và đớn đau.
Chỗ tinh tường
của nhà văn là đã tìm thấy chất thơ trong sử để chưng cất thành sử thi như một
vẻ đẹp riêng của sông Hương: sông Hương trong lịch sử và trong cảm nhận của nhà
văn đã trở thành “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc”.Trong dòng chảy thời gian, sông Hương đã đI trọn vẹn cuộc
sống và lịch sử của dân tộc, của đất nước. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch
sử dân tộc khi in bóng xuống dòng sông dã mang lại cho sông Hương một tầm vóc
kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt.
c.2. Anh dũng và bất khuất:
Trong quá trình khảo cứu về lịch sử
của sông Hương, cũng là lịch sử của dân tộc, của đất nước, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã rất chú ý làm bật cốt cách anh hùng của dòng sông xứ Huế và của con người ở
miền đất Hóa Châu.Mảnh đất Hóa Châu trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
trở thành “cái vũ đài quyết liệt” dựng lên để chứng tỏ “bản lĩnh đánh
cận chiến của những dũng sĩ đứng trấn miền cửa khẩu chuyên đánh địch trong
những khoang thuyền”. Với thế đứng sinh tử, với tầm vóc uy nghi, với mũi giáo
của những người dũng sĩ, Hóa Châu đã trở thành một cửa ải Chi Lăng ở phía Nam
Tổ quốc, trở thành nỗi khiếp sợ của bọn xâm lược qua các thời đại: từ tên tướng
Hán Mã Viện kéo rê lưỡi gươm bình định tắm máu khắp Giao Chỉ cho đến tên tướng
Minh Trương Phụ, Mộc Thạch đều phải cúi đầu lui bước, khiếp sợ khi đến đất Hóa
Châu. Cho đến lúc bờ biển châu á rầm rộ tàu đồng phương Tây vào giữa thế kỉ 17,
chính ngôi thành gan góc này đã dạy cho chúng bài học đầu tiên về sức mạnh Việt
Nam bằng việc tiêu diệt cả một hạm đội của thực dân Hòa Lan.Đến thời chóng Mĩ,
phẩm chất anh hùng và tinh thần bất khuất của người dân Hóa Châu lại một lần
nữa được bộc lộ ra trong một tuyên ngôn ngỡ như giản dị mà sâu sắc vô cùng: “Tụi
bây có sức thì cứ đào cho hết đất làng, xúc xuống hạm đội chở về đổ bên Mĩ. Làm
cho được rồi hãy nói tới chuyện bình định cái đất Hóa Châu này”.Xưa và nay,
cổ và kim hòa quyện, quấn quýt thành những kỉ niệm, ai người xưa,ai bây giờ thì
lịch sử vẫn tươi rói những khuôn mặt của người cùng thời. Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã không chỉ nói về lịch sử của đất và người bên dòng Hương giang mà còn nghiền
ngẫm sâu xa và xúc động thấm thía với những giá trị lịch sử đọng lại như lớp
trầm tích của sông để con sông xứ Huế không chỉ xinh đẹp thơ mộng trong dáng vẻ
mà còn rất thiêng liêng vĩ đại trong tầm vóc. Nghĩa là, đặt con sông trong dòng
chảy của lịch sử cũng là thêm một thứ thước đo để Hoàng Phủ Ngọc Tường làm nổi
bật vẻ đẹp riêng,sức sống riêng, linh hồn riêng của con sông quê hương.
d. Đánh giá:
Trong bài tùy
bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: Lịch
sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục,
văn chương và đời sống, con người và thiên nhiên …Trong các mối liên hệ ấy,
sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên
nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong
khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất
khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…Song dường
như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được
khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người.